Tên di sản : Nhà thờ họ Vũ (nơi thờ Vũ Trác Oánh)

Tỉnh/Thành phố : Thanh Hóa

Loại di tích : Di tích lịch sử

Sô quyết định : Số 4095/QĐ-UBND

Giới thiệu

Nhà thờ họ Vũ với kiểu nhà có số giản lẻ (3 gian được bố trí tại địa 1 điểm hài hoà trong tổ chức làng xóm, với những cảnh núi như núi Xuân Đài, núi Hí Mã, núi Nhà Rồng, ở phía Tây Nam, con sông Mã chảy phía trước, tạo sự hoà nhập với thiên nhiên là nét đặc sắc của không gian truyền thống kiến trúc cổ Việt Nam.

Nét đẹp đặc biệt của công trình kiến trúc này là địa hình và phong cảnh xung quanh là sự đồng hành không bao giờ tách rời nhau đối với kiến trúc, từ đó toát ra đặc điểm truyền thống trong kiến trúc cổ là sự hài hoà với địa hình và phong cảnh thiên nhiên trong đó ẩn náu yếu tố phong thuỷ. Phong thuỷ ở đây có thể bao gồm cả không gian rộng lớn gồm cả núi sông vùng lãnh thổ.

Nhà thờ họ Vũ là một công trình kiến trúc huy động nhiều công sức, của cải của dòng họ và dân làng. Sự ganh đua của các họ trong làng đã thúc đẩy việc tìm kiếm vật liệu, thợ mộc và đặc biệt là kiểu dáng ngôi nhà để có phong cách khá độc đáo về mặt công năng khi so sánh với kiến trúc khác quanh vùng.

Nhà thờ được cấu trúc theo kiểu chữ Nhất (-), cổng nhà thờ được dựng trên bốn cột trụ, 2 cột giữa đặt cách nhau 1,9m tạo thành lối đi ra vào, đồng thời đỡ phần mái lợp ngói đỏ được uốn cong ở các đầu mái, đỉnh nắp đắp đôi rồng chậu hoa lửa. Hai cột bên xây theo lối cột nanh, đỉnh cột đặt con nghê thường thấy ở các đình làng. Qua cổng là khoảng sân rộng 15m x 8m.

Nhà thờ họ Vũ dài 9,5m; rộng 4,6m; có hè rộng 1,7m gồm 3 gian 4 vì 2 hồi bít đốt, có tổng 16 cột, mỗi cột có đường kính 0,26m, các cột con cao 2,3m tính từ trên chân tảng đến bụng quá giang, được kê trên chân tảng. Nhà thờ được kết cấu bằng 4 vì, có 2 vì gian giữa trốn cột cái để có không gian rộng so với các gian liền kề. Gian giữa rộng 2,5m, các gian khác rộng 2,2m.

Nhà thờ họ Vũ với kiến trúc gỗ hình thành một bộ khung hình hộp không chỉ là một đặc điểm chung của kiến trúc cổ truyền, ở đây bộ khung gỗ với nhiều kiểu vì kèo khác nhau để lộ ra phía trước hàng hiện thoáng được đỡ mái bằng hệ kẻ bẩy, được gắn chặt vào đầu cột theo ba chiều không gian, kẻ bẩy vươn qua không gian hiên ăn mộng vào đầu cột con để cho tăng cường thêm phần chắc chắn ở điểm nối giữa xà nách và cột con. Xà hiện ở đầu tầu mái hiên cùng với xà đai ở đầu cột con liên kết chặt chẽ hai vì kèo của 1 gian. Điểm thu nối các chân cột con với nhau bằng hệ thống ngạch, ngưỡng cửa cũng làm chức năng liên kết như các xà và làm nên một bộ khung gỗ hình hộp vững chãi, hoàn chỉnh.

Số lượng khoảng chảy tức là số lượng hoành đã chọn theo yêu cầu tập quán: hoành được xếp theo thứ tự: "Sinh, lão, bệnh, tử", trong đó hoành nóc (thượng lượng) chiếm vị trí chữ "sinh" và hoành ở đầu tàu mái cũng vậy. Trật tự "sinh lão bệnh tử" này cũng chi phối số lượng rui đỡ ngói đảm bảo cho từng gian nhà, hoặc tất cả các gian có số rui lẻ như 9, 13...

Lớp ngói trên mái đề xuống sườn nhà vừa liên kết chặt chẽ cùng hệ thống bờ bao gắn kết với 2 trụ biểu vuông tạo thành một khối bền vững. Trụ biểu được xây vuông kẻ chỉ, trên đỉnh được đắp nổi búp liên hoa, trụ được liên kết với tường đốc nối với bát đấu trên đỉnh nóc bằng một hệ thống bờ nóc vững chãi.

Quy định mực thước ở Nhà thờ được lấy từ đầu cột và không lấy ở chân cột vì đầu cột là nơi khớp các mộng cột, xà, kẻ theo 3 chiều không gian. Tổng số cột của nhà là 16 cột, mỗi cột được "thách" 2 phân chính từ 1/3 chân cột, có nghĩa là một phần ba thân cột được đẽo nhỏ phần còn lại và nguýt cong trước khi tỳ lên chân tảng. Trong hệ thống cột của vì kèo, các cột đều choãi ra theo cách gọi "thượng thu hạ thách". Dùng “rui mực", "thước vuông" để xác định các khoảng hầu như được thống nhất trong các tập đoàn thực mộc. Đây là mực thước bắt buộc cũng là kinh nghiệm đảm bảo tư thế vững chắc cho kết cấu chính của bộ khung gỗ gồm các vì kèo trên hệ thống cột của nhà thờ.

Để thích nghi với điều kiện khí hậu miền Trung nhân dân địa phương đã tạo ra một kiểu kiến trúc vì độc đáo và bền vững, một bộ khung gỗ với 4 vì.

kèo cho 3 gian thờ, thông qua 3 chuông cửa bức bàn khi đóng mở bởi một khung ngạch gốc có then. Do kết cấu có 4 vì kèo mang 2 cặp kiểu dáng kiến trúc khác nhau nên 2 vì đầu hồi: kiểu chồng giường kẻ chuyền; 2 vì gian giữa (trốn cột): kiểu thượng chồng giường hạ kẻ chuyển. Tất cả các vì đều có 1 điểm chung là kiểu vì kẻ chuyền. Kèo được đẽo tròn lượn cong ăn mòng suốt từ cột con qua đầu một cái đến bụng giá chiêng, phía trên được kết hợp với phần lá dong đỡ các hoành, tạo được sự uyển chuyển, tránh được cảm giác nặng nề cho phần mái.

Hai vì kèo đầu hồi được cấu tạo bằng hệ thống giá chiêng trồng giường, các con giường được xếp chồng lên nhau và chạm khắc hình hoa lá, ở phần giữa giá chiêng được yểm ván khắc chữ Phúc Đức cho 2 vì hồi. Vì kèo ở đây được làm bằng gỗ lim, thượng lương được đỡ bằng một trụ đấu được chạm khắc cách điệu hình "lân hoá" tỳ lên 2 đầu giá chiêng thông qua 2 trụ tròn kết hợp với quá giang (hoặc cột cái) để chống đỡ phần mái.

Đầu quá giang của 2 vì giữa và đầu xà nách của các vì qua một con đến suốt 2 mặt của kẻ bẩy đều được chạm bong hình cúc dây. Đảm bảo một kết cấu vững chắc là hệ thống xà thế hoành, xà hạ và xà đai ở đầu cột con liên kết chặt chẽ giữa các vì. Ở 3 gian, xà hạ và xà thế hoành còn được gắn bức xiên hoa bằng hệ thống con tiện để lấy ánh sáng và thoáng khí bên trong.

Phần giao nối giữa tàu mái trước được lợp ngói kéo dài với hiên rộng 1,7m được xử lý hoàn chỉnh, làm thiết chế thờ tự bên trong hợp lý với Công năng của nơi thờ tự, là nơi sinh hoạt cộng đồng dòng họ cũng là nơi sinh hoạt tín ngưỡng trong dịp giỗ họ. Không gian rộng rãi của hiên làm gian chính nối liền với ban thờ trong hậu cung được sử dụng thuận tiện trong dịp khánh tiết, nơi đặt bát hương cùng nhiều vật dụng tế tự như chân nết, hộp quả, khay gỗ, hạc sú...

Bài trí đồ thờ:

Không gian thờ bên trong của 3 gian được bố trí 5 ban thờ: 2 ban đặt đầu hồi, 2 ban đặt ở 2 gian bên thờ các chi họ Vũ. Riêng gian giữa có khám thờ, bài vị đại từ, câu đối là nơi thờ vị tổ họ Vũ Trác Oánh. Bên phía tường hiên gắn một tấm bia đá "Vũ tộc từ đường bi ký", bia được làm bằng một tấm đá hình chữ nhật. Cao 1,20m, rộng 0,80m. Trán và viền không khắc hoa văn, bia khắc ngày 2 tháng 9 niên hiệu Khải Định thứ 4 (1920). Người soạn là Sử nhân, Hàn Lâm Viện Lê Văn Thọ. Người tả là Vũ Phỉ Hiển. Thợ đá thôn Nhồi Nguyễn Đình Láo khắc bia. Toàn văn chữ Hán, khắc kiểu chữ khải chân, khoảng 26 dòng, mỗi dòng từ 5 đến 35 chữ.

Thống kê hiện vật:

Hiện vật cũ:

08 hộp quả gỗ (thế kỷ XIX)

01 khay gỗ (thế kỷ XIX) đường kính 0,40cm, cao 0,22m

01 khám gỗ thờ (thế kỷ XIX) cao 0,52m; rộng 0,48m

06 cột đá vuông: cạnh 0,1m gồm 2 mảnh dài 1,4m

14 chân tảng đá: cao 0,30m; rộng 0,30m

05 đá bao hè: rộng 0,30m, cao 0,36m, dài 0,7m

02 bát hương đá

Chân lọng đá: đường kính 0,20m; dày 0,07m

Bệ đá: rộng 0,57m; cao 0,64m; dài 0,78m

Bia đá: cao 1,2m; dài 0,85m; rộng 0,80m

Con giống đá: dài 0,36m; cao 0,46m; dày 0,13m

Hiện vật mới:

2 bát hương gốm (cung tiến) cao 0,2m; đường kính 0,22m, 02 học sứ thờ (cung tiến) cao 0,52m

02 câu đối cao 0,82m, rộng 0,31m.

02 bức đại từ dài 1,2m, rộng 0,75m.

01 bộ chấp kính

01 trống cái

02 hạch sứ thờ cao 0,25m

02 bình sứ cao 1,2m, đường kính 0,50m

01 lư đồng cao 0,38m, đường kính 0,25m

02 chân nến đồng cao 0,42m

Chiêng, tán lọng, phất trần, chấp kích...

Hình ảnh Nhà thờ họ Vũ (nơi thờ Vũ Trác Oánh)

Nhà thờ họ Vũ (nơi thờ Vũ Trác Oánh)

Tài khoản

Video clip

Liên kết

Hoạt động văn hóa nổi bật